【#1】Tử Vi Là Bói Toán, Tâm Linh, Mê Tín, Hay Khoa Học?

TỬ VI LÀ BÓI TOÁN, TÂM LINH, MÊ TÍN, HAY KHOA HỌC?

Nhiều lần SGT được giới thiệu là “biết coi bói”, hay được yêu cầu là “bói tui một quẻ”. Bói khác, xem tử vi khác. Bói thì có nhiều loại bói, phổ biến là bói bài tây, bài Tarot. “Quẻ” thì thường là gieo quẻ đồng tiền, hay bốc một số lượng đồng tiền (tương tự cách bói cỏ thi hồi xưa). Bói và quẻ hên xui, có khi đúng, có khi sai, SGT nghĩ yếu tố quan trọng quyết định đúng sai (nếu cho rằng người coi bói hay coi quẻ không lừa khách) là sự kết nối tư tưởng của người muốn coi bói/quẻ với vũ trụ.

Tử vi thì khác, về nguyên tắc, bất kỳ ai nếu nạp đủ lượng kiến thức về cách giải đoán tử vi thì đều có thể coi tử vi (luận đoán lá số tử vi), không cần sự kết nối của chủ nhân lá số với vũ trụ, người giải đoán tử vi cũng không cần có một khả năng tâm linh nào cả. Xem tử vi giống như giải phương trình hơn 100 biến, các biến có tương tác với nhau, ví dụ A gặp B thì A vẫn là A, nhưng A gặp C thì A thành A’.

Vì xem tử vi là dựa vào sách, bưng công thức ra áp vô, gia giảm tùy vào sự ảnh hưởng qua lại của các sao, của âm dương, ngũ hành; do đó, Tử vi hoàn toàn là Khoa học, chẳng có gì mê tín trong đây.

Trong khoảng 8 năm Saigontrẻ biết xem tử vi, đã xem cho mình và nhiều trăm người khác, nếu những ai lá số ứng (tức thông tin đọc được từ lá số khá là khớp với thực tế tính cách, quá khứ, hiện tại) thì sự chính xác của tử vi khá cao. Tuy nhiên, tử vi không nói biên độ, chỉ nói định tính, không định lượng. Ví dụ lá số của cô A cho thấy cô này rất giàu có, chứ không thể nói cụ thể cô ấy sẽ có bao nhiêu tỷ đồng ở từng thời điểm.

Và quan trọng là: chúng ta không có định mệnh, mà có số mệnh. Có nghĩa là: chúng ta hoàn toàn có thể cải thiện số mệnh của mình. Bằng cách nào? Các bài sau sẽ giải thích.

SAIGONTRẺ

【#2】Bài Học Từ Việt Nam Trong Bối Cảnh Kinh Tế Toàn Cầu Chững Lại

Trong vỏn vẹn ba thập kỷ, Việt Nam đã chuyển mình từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành một trong những câu chuyện thành công nhất thế giới về phát triển.

Công cuộc Đổi mới bắt đầu từ cuối thập niên 1980 đã giúp đất nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế thị trường, theo hướng toàn cầu hóa. Thành quả đem lại là Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân ấn tượng 7% trong các năm từ 1991 đến 2010.

Nhưng dù đạt được những thành công lớn như trên, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chững lại, những thành quả của Việt Nam có phần mong manh.

Một phần ba dân số của Việt Nam, tức khoảng 30 triệu người, đang có nguy cơ rơi trở lại vào nghèo đói. Báo cáo chung của chúng tôi và chính phủ Việt Nam, với tiêu đề Việt Nam 2035, nhận định Việt Nam sẽ có lợi nếu tiếp tục cải cách để phát triển kinh tế và đạt tốc độ tăng trưởng đủ để đưa nước này tiến lên vị thế nước có thu nhập trung bình cao trong vòng 20 năm nữa.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và tôi, khi cùng dùng bữa trưa tại Hà Nội vào tháng 7/2014, đã quyết định thực hiện báo báo cáo này với những đóng góp của cả các chuyên gia Việt Nam và quốc tế. Báo cáo đề ra một loạt các bước đi mà Việt Nam cần thực hiện để đạt được mục tiêu đầy tham vọng là trở thành một quốc gia hiện đại, công nghiệp hóa trong thời gian chỉ một thế hệ. Nội dung chính của báo cáo tất nhiên là về Việt Nam, nhưng nhiều khuyến nghị trong báo cáo cũng có thể áp dụng cho tất cả các nước đang tìm kiếm cơ hội cạnh tranh tốt hơn trong nền kinh tế toàn cầu hóa.

Báo cáo đưa ra ba thông điệp chính rõ ràng:

Thứ nhất, Việt Nam cần đạt tốc độ tăng trưởng mỗi năm ít nhất 7% để trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình cao trong vòng hai thập niên tới. Tăng cường sáng tạo, phát triển đô thị hóa bền vững và hiệu quả, tăng cường thích ứng với các mô hình khí hậu đang thay đổi sẽ giúp đạt mức tăng trưởng này. Việt Nam cần nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của khối kinh tế tư nhân, vì đây chính là động lực tạo việc làm, đổi mới, và nâng cao năng suất lao động.

Kinh tế tư nhân của Việt Nam sẽ phát triển tốt nếu giảm các rào cản cạnh tranh cũng như phân bổ nguồn vốn, đất đai hiệu quả hơn. Những bước đi này sẽ giúp Việt Nam tận dụng lợi thế đem lại từ những cơ hội thương mại mới thông qua các hiệp định như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái bình dương.

Nhưng nếu chỉ dựa vào tăng trưởng thì chưa đủ để nâng cao đời sống của mọi người dân Việt Nam. Thông điệp thứ hai của báo cáo là tăng cường phát huy những kết quả ấn tượng của Việt Nam về bình đẳng, công bằng xã hội. Các nhận định trong báo cáo kêu gọi tăng cường bình đẳng cho các nhóm thứ yếu, nâng cao chất lượng dịch vụ cho người già và tầng lớp trung lưu thành thị.

Chỉ trong 30 năm, Việt Nam đã giảm được tỉ lệ nghèo đối bần cùng từ 50% xuống gần 3% – một thành quả đáng kinh ngạc. Việt Nam hiện đang đứng trước cơ hội tập trung vào 3% còn lại này – chủ yếu là những người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đồng thời cũng là những người dễ chịu ảnh hưởng nhất từ thiên tai, biến đổi khí hậu hay các cú sốc kinh tế. Việt Nam đặc biệt đứng trước nhiều nguy cơ phải chịu ảnh hưởng bất lợi từ biến đổi khí hậu, vì phần lớn dân số và cơ sở kinh tế của Việt Nam đều nằm ở những vùng đất thấp, như đồng bằng, vùng châu thổ.

Chúng tôi đang giúp Việt Nam đối phó với vấn đề này thông qua việc nâng cấp những dự án biến các khu vực đô thị kém hiệu quả thành những cộng đồng đầy sức sống, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Tính đến nay, gần 1.000 km kênh mương, đường xá được xây mới hay cải tạo đã góp phần giảm ngập lụt, cải thiện điều kiện môi trường cho 200 khu dân cư thu nhập thấp, hỗ trợ cho 2,5 triệu người gồm chủ yếu là người nghèo. Đây chỉ là một ví dụ về rất nhiều dự án chúng tôi đang thực hiện tại Việt Nam.

Trẻ em ở các gia đình nghèo cũng cần được tiếp cận tốt hơn với các điều kiện học hành, dinh dưỡng, vệ sinh, từ đó có được những cơ hội tốt nhất để thành công khi trưởng thành. Ngoài ra còn có những cải cách khác như xây dựng hệ thống hưu trí bền vững, tăng tỉ lệ học hết cấp ba, phổ cập y tế toàn dân trên nền tảng một hệ thống y tế cơ sở mạnh.

Thông điệp cuối cùng của báo cáo là về quản lý nhà nước. Việt Nam sẽ nâng cao cơ hội thực hiện các mục tiêu của mình đề ra đến năm 2035 bằng cách cải cách toàn diện nền hành chính. Tuy chúng tôi đã ghi nhận được những bước tiến lớn trên lĩnh vực này nhưng Việt Nam vẫn cần phát triển lên để trở thành một xã hội hiện đại, dân chủ hơn. Những bước đi này sẽ phụ thuộc vào những cơ cấu thể chế có trách nhiệm, minh bạch, dựa trên nền tảng vững chắc là nhà nước pháp quyền.

Con đường phía trước tuy còn nhiều thử thách nhưng tôi tin tưởng chắc chắn rằng Việt Nam có thể thực hiện được chương trình cải cách nhiều tham vọng của mình nếu tiếp tục mở cửa để phát huy tiềm năng của nền kinh tế tư nhân trong nước cũng như thực hiện những khuyến nghị của báo cáo này. Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam thực hiện định hướng đến năm 2035 trở thành một xã hội công bằng, thịnh vượng, dân chủ, làm tấm gương cho các nước trên thế giới.

【#3】Phân Biệt Tử Vi Khoa Học Và Bói Toán ‘đoán Bừa’ (P1)

Tử vi thật thường dựa trên những thông tin chính xác về năm, tháng, ngày, giờ sinh của mỗi con người.

Đầu năm mới, nhiều người thường đi xem bói, xem lá số tử vi… để thỏa mãn tâm lý tò mò xem năm nay của mình như thế nào. Bên cạnh những loại hình bói toán được xem là mê tín dị đoan thì khoa học tử vi, phong thủy đã chính thức được thừa nhận.

Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Mạnh Linh, Trưởng phòng Phong thủy kiến trúc, Viện quy hoạch & Kiến trúc đô thị, Đại học Xây dựng để bàn sâu hơn về vấn đề này.

Anh Linh thân mến đầu năm người Việt mình thường có thói quen đi lễ chùa và xin quẻ luôn tại chùa để xem năm đó vận mệnh của mình như thế nào? Vậy theo anh việc xin quẻ đầu năm và xem tử vi có gì khác nhau?

Sự khác biệt của hai loại hình này nằm ở chỗ, tử vi thì người ta xem để biết được vận mệnh chung của đời người hoặc là trong năm tới có những chuyện gì sẽ đến với mình.

Còn xem quẻ đầu năm, người ta chỉ xem trong năm tới có những chuyện tốt hay chuyện xấu sẽ đến và hầu hết là người ta đến đình chùa để rút quẻ.

Việc xem quẻ như thế thường chung chung hơn, không đi vào chi tiết.

Là người nghiên cứu về vấn đề phong thủy, đầu xuân năm mới anh có thường đi lễ chùa để xem quẻ không?

Nếu là những người có nghiên cứu và hiểu biết thì người ta có thể tự xem ở nhà chứ không cần thiết phải đến chùa.

Bạn Ngọc Linh (Hà Nội) có hỏi như sau: Tôi được biết tử vi mang tính chất quy luật khi tìm hiểu rất nhiều người để áp dụng vào phán đoán vận hạn của một người nhưng rất khó để nhận biết đâu là tử vi thật, đâu là dựa trên bói toán. Anh nghĩ gì về điều này?

Tử vi thật thường dựa trên những thông tin chính xác là năm, tháng, ngày, giờ sinh của mỗi con người. Nếu những thông tin này được cung cấp chính xác thì việc luận giải cũng sẽ tương đối chính xác.

Còn việc xem bói thì hầu hết người ta chỉ đến để xem những thông tin chung, nhiều khi dựa vào hình dáng hoặc cách hỏi để người ta luận giải xem có thuận lợi hay không? Xem bói nhiều khi không đi vào được chi tiết.

Vậy xác suất của tử vi so với xem bói thì độ chính xác khoảng chừng bao nhiêu phần trăm?

Độ chính xác của tử vi có khi đạt được tới 70 – 80%, còn xem bói thì khó nói được bao nhiêu phần trăm vì hầu hết là người ta chỉ nói được tốt xấu.

Bạn Trịnh Gia Hân có địa chỉ email: [email protected] hỏi: Tính khoa học của phong thủy và tử vi như thế nào? Làm thế nào để phân biệt được ai, nơi nào nói khoa học hơn, nơi nào đoán bừa?

Bản chất của việc xem lá số của khoa học tử vi là dựa trên yếu tố âm dương, ngũ hành và đó cũng là cơ sở biện chứng để xem xét, cân nhắc.

Để biết được nơi nào đó xem có chính xác hay không thì phải dựa vào việc nơi đó phân tích có dựa vào yếu tố âm dương ngũ hành hay không.

Để biết có chính xác hay không bản thân người đi xem cũng phải để ý xem khi người ta luận giải và những dự báo đó thì mình có thể kiểm nghiệm xem có đúng hay không.

Ví dụ như nói trong năm tới có việc tốt, việc xấu nào thì gia chủ cũng phải chiêm nghiệm xem việc xảy ra trong thực tế có đúng như vậy không.

Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

【#4】Khoa Học Hay Bói Toán Công Nghệ Cao?

Hiện nhiều phụ huynh đổ xô cho con đi sinh trắc vân tay với mong muốn khai thác tiềm năng nổi trội, sớm định hướng nghề nghiệp cho con trong tương lai, rút ngắn thời gian đầu tư, đến nhanh hơn với thành công.

Nhân viên một trung tâm sinh trắc vân tay trên địa bàn TP.Biên Hòa lấy dấu vân tay cho khách hàng. Ảnh: P.Liễu

Tuy nhiên, theo một số bác sĩ, chuyên gia tâm lý, nếu nói sinh trắc vân tay có thể khám phá thế mạnh bẩm sinh mà con em mình đang sở hữu là không có cơ sở khoa học. Đáng lo ngại, nếu đưa ra kết quả định hướng nghề nghiệp sai lệch sẽ dẫn đến việc hướng nghiệp sai và đầu tư không đúng sở trường của trẻ.

* Đổ xô đi “khai quật” tiềm năng cho con

Các trung tâm dịch vụ sinh trắc vân tay đang nở rộ. Chỉ cần lên Google gõ cụm từ “sinh trắc vân tay” trong 0,4 giây đã có 6,6 triệu kết quả hiện ra với vô số trang thông tin giới thiệu dịch vụ sinh trắc vân tay. Tại TP.Biên Hòa, các trung tâm làm dịch vụ sinh trắc vân tay cũng được mở ra ngày càng nhiều. Hiện toàn thành phố có 11 trung tâm, với giá dịch vụ từ 2,5-3,5 triệu đồng/lần.

TS.Lê Minh Công, Viện phó Viện Nghiên cứu ứng dụng khoa học tâm lý và giáo dục cho biết, vấn đề sử dụng, lưu trữ vân tay của các trung tâm sinh trắc vân tay ngoài xem xét lại tính khoa học cũng cần quan tâm đến khía cạnh pháp lý. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, rất nhiều giấy tờ, dịch vụ giao dịch dùng dấu vân tay như một chìa khóa, nếu không có sự quản lý chặt chẽ, sẽ gây ra nhiều hệ lụy.

Thấy nhiều bạn bè cho con đi sinh trắc vân tay, chị Nguyễn Thùy Uyên (phường Bình Đa, TP.Biên Hòa) cũng muốn biết tiềm năng của con gái 3 tuổi nên liên hệ với một trung tâm khám phá tiềm năng ở quận Tân Bình (TP.Hồ Chí Minh) với giá dịch vụ 3 triệu đồng. Trung tâm này cho người về TP.Biên Hòa để lấy vân tay cho bé qua một máy quét nhỏ trên laptop.

2 tuần sau, chị Uyên nhận được một báo cáo dày tới 40 trang với nhiều thông tin, hình ảnh kỹ thuật cùng những trang tham khảo về chỉ số thông minh của nhiều nhà khoa học nổi tiếng. Trong báo cáo cũng có đưa ra một số chỉ số của con chị như: IQ (chỉ số thông minh), EQ (chỉ số thông minh cảm xúc), AQ (chỉ số vượt khó), CQ (chỉ số thông minh sáng tạo), tính cách, khả năng thiên bẩm, một số điều cần tránh, một vài loại bệnh mà bé có thể mắc trong tương lai.

“Về định hướng nghề nghiệp tương lai, nhân viên cho biết con tôi có thiên hướng nghệ thuật, khuyến nghị tôi sau này nên cho bé theo các ngành kiến trúc, hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, điện ảnh… sở trường sẽ được phát huy, thành công nhanh và dễ dàng. Thực ra, tương lai của bé còn quá xa. Để biết điều đó đúng hay sai, cần thời gian chứng minh” – chị Uyên nói.

Cũng với mong muốn được biết con mình sở hữu tài năng gì, anh Đỗ Văn Toàn (phường Tân Hiệp, TP.Biên Hòa) đưa con trai 5 tuổi đến một trung tâm sinh trắc vân tay trên địa bàn phường Tân Hiệp để kiểm tra vân tay. Nhận tập báo cáo dày đến 50 trang của trung tâm, anh Toàn tỏ ra băn khoăn về độ chính xác trong việc tư vấn, hướng nghiệp. Anh ngạc nhiên khi nghe nhân viên tư vấn nói con trai anh thiên về khả năng làm các nghề thủ công như: may mặc, làm tóc, trang điểm, nấu ăn…

“Tôi muốn biết con mình có sở trường gì để định hướng sớm, nhưng những nghề được định hướng trên, tôi chưa bao giờ thấy cháu có hứng thú gì. Kiểm tra cho vui chứ không nên áp đặt con theo hướng tư vấn. Lớn dần, những năng khiếu thiên hướng của con sẽ bộc lộ, lúc đó định hướng cũng chưa muộn” – anh Toàn chia sẻ.

* Không có cơ sở khoa học

Mặc dù các trung tâm sinh trắc vân tay đều khẳng định tính thiết thực và lợi ích rất lớn của dịch vụ đối với việc định hướng nghề nghiệp, giúp khai thác đúng tiềm năng, sở trường của con trẻ. Tuy nhiên, theo nhiều bác sĩ, chuyên gia tâm lý, nếu chỉ sinh trắc vân tay mà “giải mã” được toàn bộ tiềm năng của một con người là không có cơ sở khoa học.

Bác sĩ Nguyễn Văn Cầu, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện tâm thần trung ương 2, người có gần 30 năm công tác trong ngành tâm thần chia sẻ, khi còn trong bào thai, vân tay của trẻ phát triển cùng với sự phát triển của não bộ đến tháng thứ 6 thì định hình vĩnh viễn. Tuy nhiên, não bộ không có quá nhiều kết nối với vân tay. Do đó, nếu nói sinh trắc các dữ liệu ADN, gen, tế bào hay nhiễm sắc thể để đánh giá tiềm năng não bộ của một con người thì còn có cơ sở khoa học, chứ chỉ sinh trắc vân tay bình thường bằng tin học thì không đáng tin cậy. Còn muốn biết các chỉ số IQ, AQ, EQ, CQ rất đơn giản, chỉ cần cho các cháu tham gia bộ trắc nghiệm đánh giá các chỉ số này là có thể biết.

Tương tự TS.Lê Minh Công, Viện phó Viện Nghiên cứu ứng dụng khoa học tâm lý và giáo dục cho biết, vân tay được hình thành dưới tác động môi trường trong bào thai nên không có giá trị để đánh giá về các yếu tố tiềm năng não bộ, trong khi đó sự phát triển các tập tính thông minh, trí tuệ cũng như các sở trường của một con người phụ thuộc vào 4 yếu tố, đó là yếu tố di truyền (chỉ là phần nhỏ), 3 yếu tố khác là: sự giáo dục của gia đình, môi trường sống và tự lập, tự rèn luyện của bản thân.

TS.Lê Minh Công cho biết thêm: “Nhiều người hỏi tôi về việc này và nói chỉ cho con làm thử cho vui. Tôi cho rằng, đánh giá về cơ sở khoa học của việc này tôi đã khẳng định là không có cơ sở, còn nếu nói làm thử cho vui thì quá tốn kém, không cần thiết, đôi khi không có lợi cho trẻ nhỏ. Bởi khi đã cầm trên tay kết quả về tiềm năng của con, được tư vấn khuyến nghị nghề nghiệp tương lai của con, cha mẹ rất dễ có xu hướng “hướng” hoặc “ép” con theo kết quả định hướng nghề nghiệp được các trung tâm vẽ ra”.

Phương Liễu

【#5】Bói Toán Là Mê Tín Hay Khoa Học?

Cuộc đời của một người là đã được định sẵn, xưa nay người tinh thông Chu Dịch, Bát quái… có thể bấm tay mà bói ra được. Bói toán tồn tại chính là vì muốn bảo cho con người biết rằng nên sống thuận theo thiên mệnh, tùy kỳ tự nhiên.

Vào những năm Đường Thái Tông ở Trung Quốc có một người tên là Lý Thuần Phong, người Ung Châu, tinh thông thiên văn lịch pháp, có thể ‘dự đoán cát hung’ cực kỳ chuẩn xác, từng nhậm chức Thái Sử Lệnh. Đến những năm Càn Nguyên thời Đường Túc Tông, dòng họ ông có một cụ già tên là Lý Tri Vi, rất giỏi thuật chiêm tinh, xem bói, xem mệnh, bói quẻ, dự đoán họa phúc cát hung, ắt nói là trúng, không sai tý nào. Lão Lý sống tại chợ Tây thành Trường An.

Đương thời có một người họ Lưu, đến kinh thành Trường An muốn nhờ vả cầu quan, nhưng mấy năm không được. Năm nay, họ Lưu thông đồng với bộ lại (cơ quan hành chính cấp bộ thời xưa), dựa vào quan hệ cửa sau, tự cho là có chí thì ắt nên chuyện. Nghe nói lão Lý xem bói cực chuẩn, bèn đến chợ Tây tìm lão.

Ông lão bốc một quẻ và mỉm cười, nói: “Năm nay cầu mà không được, sang năm không cầu mà tự được”. Họ Lưu không tin, đợi đến khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên không có tên. Sang năm lại đến kinh thành tham gia đợt thi của bộ lại, nhớ lại lời của lão Lý, ông không nhờ vả quan hệ nữa, nhưng không đủ tự tin, lại đến chợ Tây hỏi lão.

Lão Lý phán rằng: “Năm ngoái ta đã nói rồi, chức quan của ông tất thành, không phải ngờ vực”.

Lưu Sinh hỏi: “Nếu được làm quan, thì nhậm chức tại đâu?”.

Ông lão phán rằng: “Làm quan tại đất Đại Lương, làm quan rồi hãy đến gặp ta, ta có lời muốn nói”.

Khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên tuyển chọn Lưu Sinh làm huyện úy phủ Khai Phong. Lưu Sinh kinh ngạc mừng rỡ, xem lão Lý như thần, rồi lại đi gặp lão.

Lão Lý phán rằng: “Ông đi làm quan, không cần tiết kiệm, cứ tùy ý thu nạp, ắt không gặp trở ngại. Khi nào sắp mãn nhiệm, ông có thể xin một chức quan, rồi vào kinh thành, ta muốn gieo cho ông một quẻ”.

Lưu Sinh ghi nhớ lời dặn, đến phủ Khai Phong làm huyện úy. Bởi vì xuất thân từ quan gia, được quan trên yêu mến, nhớ lời của lão Lý, ông thỏa sức vơ vét tiền tài mà không lo nghĩ gì. Quan lại trên dưới đều rất yêu mến ông. Hết nhiệm kỳ, ông tích lũy được tới một nghìn vạn quan tiền, bèn đến gặp quan Thích Sử, xin làm quan áp giải tô thuế đến kinh đô. Khi đến Trường An, ông lại tới gặp lão Lý.

Lão phán rằng: “Trong vòng 3 ngày, ông sẽ được thăng quan”.

Lưu Sinh không tin, lão phán tiếp: “Tuyệt nhiên không sai, thăng quan cũng tại quận này, đắc được chức quan rồi, ông có thể quay lại gặp ta”. Lưu Sinh rời đi, trong lòng bán tín bán nghi.

Ngày hôm sau ông áp tải tiền thuế đến nộp vào ngân khố, đến trước ngân khố chỉ thấy ở phía Đông Nam có một chú chim ngũ sắc bay lên trên nóc nhà, màu sắc rực rỡ, hàng trăm chú chim xôn xao, kéo đến che kín cả bầu trời.

Lưu Sinh thốt lên: “Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ!”. Nhất thời làm kinh động thái giám trong cung, người trên kẻ dưới đều vây quanh.

Có người cho rằng: “Đây là chim phượng hoàng!”. Chú chim ngũ sắc nghe thấy tiếng ồn ào liền bay đi mất, hàng trăm chú chim cũng dần tản đi.

Chuyện đến tai Hoàng đế, Hoàng đế cho rằng đây là điềm đại cát, liền truyền lệnh: “Tìm xem ai là người thấy trước tiên, nếu là quan thì thăng một bậc”.

Tra ra thì Lưu Sinh là người thấy trước tiên, liền lệnh cho bộ lại, thăng Lưu Sinh làm tri huyện phủ Khai Phong. Quả đúng nội trong 3 ngày, cũng tại châu này. Lưu Sinh phục lão Lý sát đất, lại đến hỏi lão Lý nên làm quan thế nào.

Lão phán rằng: “Chỉ cần giống như ngày trước”. Sau khi Lưu Sinh đến nhận chức, vẫn tham lam vơ vét tiền của, lại có được một nghìn vạn quan tiền, sau khi mãn nhiệm tới kinh thành nghe lệnh thuyên chuyển.

Ông lại đến gặp lão Lý, thì lão phán rằng: “Lần này phải làm một vị quan liêm chính, một đồng cũng không được nhận. Cẩn trọng! Cẩn trọng!”.

Lưu Sinh quả nhiên được phong làm huyện lệnh huyện Thọ Xuân. Vì đã quen tham lam vơ vét, sao có thể nhẫn nại được? Đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, bản tính lại nổi lên, ông ta bỏ mặc ngoài tai lời của lão Lý. Không lâu sau, quan trên tước chức của ông, tịch thu tài sản vì tội tham ô.

Ông lại đến hỏi lão Lý: “Hai lần trước tôi đều không sao. Nay tôi đã bị thu chức tước, tài sản, ấy là duyên cớ làm sao?”.

Lão Lý phán rằng: “Đời trước ông là một thương nhân lớn, có hai nghìn vạn quan tiền. Ông qua đời tại Biện Châu, số tiền đó lưu lạc tại nhân gian. Giờ ông ra làm quan, vốn là lấy lại tài sản của mình xưa kia, nên không coi là tham ô, và được bình an vô sự. Người dân huyện Thọ Xuân không nợ nần ông, hà cớ gì ông lại tham lam quá mức? Nên giờ ông vẫn tham lam vơ vét cho bằng được, thì coi như làm chuyện xấu rồi”.

Lưu Sinh khắc cốt ghi tâm lời lão Lý, rời đi mà vô cùng hổ thẹn.

Bói toán không phải là mê tín, vốn đã có từ thời xa xưa. Vì cuộc đời một người đã được định sẵn, người tinh thông Chu Dịch, Bát quái có thể bấm tay mà bói ra được. Bói toán tồn tại chính vì muốn bảo cho con người biết rằng nên sống thuận theo tự nhiên. Các việc tốt, việc xấu con người gặp trong đời đều do nhân duyên, không phải chuyện vô duyên vô cớ. Nếu muốn kiếp sau được sống hạnh phúc, kiếp này phải làm nhiều việc thiện tích đức, không làm việc xấu việc ác. Kỳ thực đây là một bộ phận của văn hóa Thần truyền.

Kỳ thực, xem bói là dùng tiểu đạo thế gian của Đạo gia, suy đoán dựa vào tướng tay, tướng mặt, số mệnh gắn với ngày sinh (sinh thần bát tự), các tín tức mang trên thân người và thường bị hạn chế. Có thể nhìn thấy được tương lai và quá khứ một cá nhân, thậm chí là thấy được những quy luật phát triển của toàn xã hội, hoặc quy luật biến hóa của toàn thiên thể là điều có thực. Muốn vậy phải có công năng mà người ta gọi công năng đặc dị hay công năng túc mệnh thông, đây là một trong sáu công năng đã được thế giới công nhận.

Trong lịch sử có rất nhiều người thấy được thịnh suy, thay đổi của xã hội và viết thành sách, gọi là sách tiên tri, lưu truyền cho đến ngày nay. Chẳng hạn thời kỳ Tam quốc có “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng, triều Tống có “Mai Hoa Thi” của Thiệu Ung, triều Minh có “Thiêu Bính Ca” của Lưu Bá Ôn. Trong lịch sử có những bài thơ tiên tri của các vị hòa thượng, đạo sĩ tu hành đắc Đạo. Họ đều tiên tri rất chính xác về những sự kiện lớn sau này xảy ra trong các triều đại lịch sử. Trong đó đều nói đến giai đoạn mạt kiếp ngày nay khi đạo đức nhân loại bại hoại, dẫn đến cảnh tượng hỗn loạn như ngày nay… Bia đá trên núi Thái Bạch tỉnh Thiểm Tây của Lưu Bá Ôn nói rõ: “Trên đời có người hành đại Thiện, Gặp phải kiếp này không phải bói”.

Tuy nhiên, ngày nay bói toán đã bị con người hiện đại biến hóa thành một ‘món đồ’ để giao dịch thương mại. Người ta lợi dụng nó, đồng thời lợi dụng tư lợi của người dân để phục vụ cho lợi ích cá nhân mình. Vậy nên, việc ‘đoán mệnh’ của người xưa đến nay đã bị mất đi ý nghĩa sâu xa.

【#6】Cơ Hồ Thất Truyền 《 Bấm Tay Thần Toán Quyết 》 , Lý Thuần Phong Lục Nhâm Lúc Giờ Học Thuật Bói Toán , Phê Chuẩn Đến Đáng Sợ !

Lý Thuần Phong lục nhâm lúc giờ học thuật bói toán , ngoài căn cứ là Âm Dương Ngũ Hành học thuyết . Ngũ hành thủy, hỏa , mộc , kim , trong đất , lấy thủy cầm đầu . Thiên can Giáp, Ất, Bính, Đinh , mậu , tị , Canh, Tân, Nhâm, Quý bên trong , nhâm , quý đều thuộc thủy , nhâm là dương thủy , quý là âm thủy , cổ nhân sùng dương ức âm , cho nên bỏ âm lấy dương , tên là’ nhâm’ . Sáu mười giáp tý ở bên trong, nhâm cầm đầu can chi số có sáu vị , tức: nhâm thân , nhâm ngàn , nhâm thìn , nhâm dần , nhâm tí , nhâm tuất , cố xưng’ lục nhâm’ . Lục nhâm chiêm pháp tổng cộng có 700 hai mười giờ học , tổng theo 64 loại giờ học thể . Lục nhâm lúc giờ học của cụ thể chiêm pháp gặp chánh văn , chánh văn bên trong bình phục , lưu luyến , nhanh thích , đỏ miệng , tiểu cát , không vong đều là thần sát tên . Cái này sáu cái thần sát hợp xưng’ sáu diệu ” hoặc chủ cát hoặc chủ hung hoặc cát hung kiêm chủ ( lúc giờ lành hung ) , dưới của hắn mỗi bên phụ ca quyết một bài , tỏ rõ cát hung .

Theo pháp: mỗi từ’ bình phục’ bắt đầu tháng giêng , trên mặt trăng bắt đầu nhật , mặt trời lên cao bắt đầu lúc. Nếu mùng năm tháng ba nhật thần lúc, ba tháng tại’ nhanh thích’ bên trên, liền’ nhanh thích’ bên trên khởi mùng một , đầu năm tại’ bình phục ” ‘ bình phục’ bên trên đồ mở nút chai lúc, số đến giờ thìn là ‘ tiểu cát ” liền lấy’ tiểu cát’ đẩy chiêm . Dư đều giống đây.

( bình phục ) thân bất động lúc, chúc mộc thanh long , mưu sự chủ một , năm , bảy:

Đoạn nói: bình phục mọi chuyện xương , cầu mưu tại thần phương , vật bị mất đi không được xa, trạch bỏ bảo an khang , người đi đường thân không động , người bệnh chủ không sao , tướng quân về đồng ruộng , cẩn thận cùng đẩy tường .

( lưu luyến ) tốt chưa về lúc, thuộc thủy huyền vũ , phàm mưu sự chủ hai , tám , mười:

Đoạn nói: lưu luyến sự tình khó thành , cầu mưu nhật không rõ , việc quan chỉ nên chậm , mất nhân vị trở về , vật bị mất phương nam gặp, gấp gáp thảo phương vừa lòng , càng cần trở ngại khẩu thiệt , nhân khẩu lại thường thường .

( nhanh thích ) người liền đến lúc, thuộc hỏa chu tước , phàm mưu sự chủ ba , sáu , chín:

Đoạn nói: nhanh thích hỉ lai lâm , cầu tài hướng nam đi , vật bị mất thân vị ngọ , gặp người đạp vào tìm , việc quan có phúc đức , người bệnh vô họa xâm , điền gia lục súc cát , người đi đường có nói thanh âm .

( đỏ miệng ) việc quan hung lúc, chúc kim bạch hổ , phàm mưu sự chủ bốn , bảy , mười:

Đoạn nói: đỏ miệng chủ khẩu thiệt , quan phi thiết yếu phòng , vật bị mất gấp gáp đi tìm , người đi đường có kinh hoảng , gà chó nhiều tác quái , người bệnh xuất phương tây , càng cần trở ngại nguyền rủa , chỉ sợ nhiễm bệnh dịch .

( tiểu cát ) người đến giờ lành , chúc mộc lục hợp , phàm mưu sự chủ một , năm , bảy:

Đoạn nói: tiểu cát lành nhất xương , trên đường dễ thương lượng , âm người báo lại thích , vật bị mất tại khôn phương , người đi đường lập liền đến , quan hệ rất là mạnh, mọi thứ đều hòa hợp , người bệnh cầu mong trời xanh .

( không vong ) thơ thanh âm hiếm lúc, thổ câu trần , phàm mưu sự chủ một , năm , bảy:

Đoạn nói , không vong sự tình không dài , âm người bé ngoan trương , cầu tài vô lợi ích , người đi đường có tai ương , vật bị mất tìm không thấy , việc quan có pháp trường , bệnh nhân gặp ám quỷ , cầu an bảo an khang .

Bát tự dự đoán , tay chân mặt cùng nhau , sự nghiệp tài vận , tình cảm tình yêu và hôn nhân , phong thuỷ điều trị các loại, nhìn kết liễu thiện duyên ! Bài này tác giả nick Wechat: 859447 128

【#7】Người Học Phật Nhìn Nhận Ra Sao Về Bói Toán, Tử Vi?

Đạo Phật là đạo giác ngộ giải thoát. Việc coi bói toán tử vi, lên đồng nhập cốt không có mặt trong giáo lý nhà Phật. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, ngay sau khi Đức Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Đức Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ, xem sao và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở các trường đại học Phật giáo trước đây ở Ấn Độ không có môn tướng số và bói toán tử vi, tuy có dạy các môn thế học như là Ngôn Ngữ Học, Thủ Công Nghệ Học, Y Học và Luận Lý Học.

Theo quan điểm Phật giáo thì vấn đề tai họa hay sung sướng, khổ đau hay bất hạnh, giầu có hay nghèo khổ đều do nhân thiện ác mà chúng ta gieo trồng từ nhiều đời sống trước rồi đời này hay đời sau chịu quả báo. Lại cộng thêm sự nỗ lực hay lười biếng trong đời sống hiện tại mà có thể thay đổi hoặc ảnh hưởng đến vận mạng của đời này hay đời sau. Do việc gieo nhân khác nhau trong đời trước mà tiếp nhận hoàn cảnh khác nhau trong đời này. Cái gọi là hoàn cảnh cũng bao gồm cả di truyền của cha mẹ, bối cảnh văn hóa, văn minh, nuôi dưỡng và giáo dục, anh em, họ hàng, thầy bạn và đồng nghiệp. Tất cả đều ảnh hưởng đến vận mạng của cả một cuộc đời. Dù cho nhân tạo ra ở đời trước là xấu, dẫn tới hoàn cảnh hiện tại nhưng nếu có sự tu tập về mặt nội tâm và luyện tập thân thể tốt, trau dồi thêm ý thức, mở mang trí tuệ thì vận mạng cũng sẽ biến đổi theo chiều hướng tốt.

Một nhà Sư người Trung Hoa là Trí Khải Đại Sư, trong bài tựa cuốn “Đồng Mông Chỉ Quán”, kể trường hợp một chú Sa-di trẻ ở cùng chùa với một vị trụ trì đã chứng quả A-la-hán. Vị trụ trì biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh, không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò lên đường về nhà thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy đe doạ cuốn trôi đi. Chú Sa-di trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn cởi quần áo nhảy xuống sông, ra sức đắp lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, chú Sa-di tiếp tục lên đường về thăm nhà và sau một tuần trở lại chùa. Vị Thầy trụ trì thấy học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, bèn hỏi chú Sa Di, tuần lễ vừa qua đã làm những gì. Sau một hồi nhớ lại chú Sa di đã tường thuật cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến thoát chết. Vị trụ trì kết luận là do chú Sa-di phát tâm từ bi rộng lớn cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vong một tuần lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.

Do câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng không có một cái gì là cố định, không có một cái gì là định pháp hay định mệnh, tâm thức chúng ta biến chuyển từng sát na và do đó nghiệp thức lẫn nghiệp quả cũng thay đổi từng sát na. Nếu các ông thầy bói toán tử vi tướng số nói những gì xảy ra trong tương lai mà chúng ta tin, tức là chúng ta tin rằng muôn sự muộn việc là thường chứ không phải là vô thường và là định pháp chứ không phải là bất định pháp, tức là chúng ta mù quáng mà phủ nhận định luật nhân quả và giáo pháp vô thường của Phật dạy.

Tóm lại, đối với việc coi tử vi bói toán, cũng như việc xin xăm cầu đảo là những việc làm có tính cách mê tín, không có chỗ đứng trong Phật Giáo. Người Phật Giáo được khuyên bảo cẩn trọng đừng để rơi vào hố sâu mê tín dị đoan khiến tâm bị rối loạn bởi sự sợ hãi không cần thiết. Một thời tọa thiền hay niệm Phật hằng ngày giúp ích rất nhiều để tự thanh lọc tư tưởng bất thiện trong tâm. Tâm được thanh lọc tự động dẫn đến một thân thể trong sạch và khoẻ mạnh. Pháp Phật là liều thuốc chữa khỏi các loại tâm bệnh này. Một phút giây tâm được tịnh là ngưng tạo bao nhiêu nghiệp, ngưng gieo bao nhiêu nhân và xa bao nhiêu dặm khổ ải.

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

“Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp.” [20]

Nếu như con người hàng ngày không làm các việc lành thiện, chỉ lo tạo tội, tạo nghiệp, trong cuộc sống đấu tranh giành giựt, khi quả báo đến, không ai có thể tránh được, dù cho có lên non xuống biển hay trốn vào hang núi.

【#8】Chiêm Tinh Học Và Thuật Bói Toán Tại Việt Nam Cổ Truyền

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN Lời Người Dịch:

Ngô Bắc dịch

*** Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên , quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Chiêm Tinh Học Việt Nam: Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và Văn Chương Thứ Yếu

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam: Một Tổng Quan

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Theo quyển 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử Việt Sử Lược trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu ” Ti Thiên Giám ” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Các Sự Quan Sát Thiên Văn Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ .

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương Việt Sử Lược Việt Sử Lược , có nghĩa “Trước Thềm Rồng xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. và 新 .

35. Ho 1964: 138, các được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

58. Trần 1938: 106-107.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

. BNV R. 293.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 ( Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 ( Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ( Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) { Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) (]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ( Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ( Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi 65 數 (Ce sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về Ba Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem ). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – Việt Sử Lược (2009). “Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант” (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). “L’enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan.” In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). “Bibliographie Annamite.” BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). “Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử).” Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). “Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source.” Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d’Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). “Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren.” Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). “La littérature pinatoire dans le Daozang.” Cahiers d’Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et pination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina , University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d’une page de l’almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). “La pination d’après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang.” Cahiers d’Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). “Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam.” Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). “Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam’s demotic script.” Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica .

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) – une bureaucratie à l’épuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L’École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). “A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology.” Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). “Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” : 537-548.

VOLKOV, Alexei (2009). “Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam.” Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). “Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics.” Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). “Cartography in Vietnam,” trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

Alexei Volkow

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Ngô Bắc dịch

【#9】Xem Tử Vi Khoa Học Hay Bói Toán?

Mỗi khi muốn thấu hiểu và chiêm nghiệm về vận mệnh của cuộc đời thì người Phương Đông thường hay dựa vào lá số Tử Vi. Vậy thì Tử Vi có phải là một dạng thức khoa học? Hay chỉ là một hình thức xem bói toán dựa trên những yếu tố suy diễn theo kiểu bói toán? Vì độ chính xác của lá số Tử Vi khá cao. Cho nên không ít các nhà nghiên cứu nhân học và tiềm năng con người đã nhìn nhận Tử Vi như là một bộ môn khoa học huyền bí cần được nghiên cứu.

Nhiều người quan niệm Tử Vi chính là một môn khoa học có sức mạnh siêu nhiên. Giải thích được tất cả về số mệnh và bí ẩn của đời người. Chỉ cần nhìn vào lá số Tử Vi là có thể biết mọi việc trong quá khứ và tương lai của một người. Nhưng cũng có một số người cho rằng xem Tử Vi là một loại hình bói toán và mê tín dị đoan.

Cho dù sự chính xác còn phải bàn cãi, nhưng việc “mã hóa’ và sơ đồ hóa” số mệnh con người vào một lá số đã cho thấy tham vọng lớn lao của Tử vi. Ngày nay, dưới con mắt của các nhà khoa học, Tử vi được coi là một loại hình khoa học huyền bí kết hợp với nhân học. Sự kết hợp này mang đến nét độc đáo trong việc tiên đoán số mệnh của con người

Tử Vi có thể coi là một môn khoa học được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất thần toán”. Bộ môn chuyên nghiên cứu về nhân học tức vận mệnh và cuộc đời con người. Xưa nay Tử Vi vốn bí truyền và chỉ dành cho tầng lớp vua quan, quý tộc. Họ dùng Tử Vi để xem vận mệnh cho hoàng tộc và tuyển chọn nhân tài giúp nước.

Thời Tống, nền văn minh Trung Hoa đã có bước phát triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu về nhân học. Khoa Tử Vi ra đời chậm. Tuy nhiên bộ môn này tổng hòa được những tinh hoa của Kinh dịch, nhân tướng học, thiên văn học đúc kết lại cho mình một cơ sở lý thuyết riêng. Với những nét đặc trưng độc đáo của mình, khoa Tử vi được nhiều nhà khoa học ngày nay xem như là một bước tiến về nhân học Trung Hoa thời Trung đại.

Xã hội hiện đại đã phá bỏ những rào cản và định kiến. Người ta cũng thoải mái hơn trong việc chia sẻ kinh nghiệm học và xem Tử Vi. Và Tử Vi trở thành một công cụ hữu dụng giúp con người làm chủ được vận mệnh của chính mình. Thay vì phó mặc cho cái gọi là số phận an bài.

Trong những kiểu tiên tri, Tử Vi thường được coi là một bộ môn có tính chính xác cao và được nhiều người tín nhiệm. Khoa Tử Vi vừa mang tính khoa học thống kê vừa phần nào mang tính đúc kết kinh nghiệm. Nếu xét theo những điều kiện cần thì Tử Vi có thể được coi là một khoa học theo một mặt nào đó. Tử Vi có một hệ thống lý luận riêng và cách tiếp cận nghiên cứu nhân học vô cùng độc đáo.

Thực tế để xem chuẩn một lá số Tử Vi đòi hỏi khả năng ghi nhớ và phân tích logic vì nó là một hàm số có quá nhiều biến số tương tác lẫn nhau. Nếu coi các nguyên tắc tương tác giữa các sao là một hàm số, thì lá số Tử vi của một người là một hàm số có tới hơn 100 biến số.

Hơn nữa bản mệnh của con người cũng vốn phức tạp. Không tuân theo một quy tắc chung nào. Mỗi người hành xử theo nguyên lý của lý trí hay tình cảm. Điều này khiến cho Tử Vi dù tuân theo đúng quy tắc luận giải vẫn không có lời giải máy móc cho cùng một vấn đề của những người cùng một lá số.

Cơ sở khoa học của Tử Vi

Tử Vi cũng có tính lập luận và logic học rõ ràng. Một lá số Tử Vi có 114 sao. Mỗi ngôi sao có một ý nghĩa.12 cung phản ảnh cuộc đời con người và những mối quan hệ xã hội. Có thể coi Tử Vi là một dạng thức khoa học kết hợp triết học cơ bản. Tử Vi vận động theo các sao ở 10 can, 12 chi dịch chuyển và biến đổi theo lý thuyết Bát Quái. Tương tác với nhau theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Những triết lý bói toán cũng được hệ thống hóa dựa trên nền tảng của triết lý Âm Dương Ngũ Hành.

Ngoài ra, khoa Tử Vi cũng có tính lập luận và logic rõ ràng. Các Tử Vi gia kết hợp lý luận của sao số, thiên can, địa chi, ngũ hành, lục thập hoa giáp để luận đoán… Những trải nghiệm và chứng minh từ thực tế đời sống vô cùng chuẩn xác. Các cung trên lá số Tử Vi là những hàm số căn bản. Trong các cung có Chính tinh và Phụ tinh. Những ngôi sao này tương với nhau theo cách cục được ấn định sẵn. Từ đó lá số Tử Vi trở thành một “đa hàm số” với nhiều biến số biến đổi rất phức tạp.

Nhược điểm của khoa Tử vi chính là không đo lường được về lượng cũng như về chất một cách chính xác. Dù Tử Vi có một phương pháp, một công thức, một đồ biểu rất rõ ràng và chính xác. Nhưng khi kết hợp các yếu tố lại khá phức tạp. Không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ thể nào.

Các nhà nghiên cứu về Tử Vi nói riêng cũng như các môn khoa học dự đoán nói chung vẫn còn đang hoàn thiện lý thuyết của mình để đưa ra những xác suất mới. Nhằm đánh giá cũng như nhìn nhận Tử Vi khoa học dự đoán. Bởi việc bình giải Tử Vi có thể cho ta đáp án của bất cứ câu hỏi nào về cuộc đời con người. Cho nên cần nhìn nhận một cách khách quan, xem xét với thực tế. Chỉ tin những gì thực sự đúng hay đã xảy ra đối với ta.

Giả sử bạn may mắn được một Tử Vi gia cho đôi lời bình giảng về lá số Tử Vi của bạn. Sau khi chấm Tử Vi, bạn bỗng dưng thấu hiểu được bản thân mình, sau đó là hai chữ thời vận. Biết mình để phát huy ưu điểm, giảm bớt khuyết điểm, phát triển một cách toàn diện nhất. Biết thời vận là biết thời thế, vận tốt thì xông pha. Vận xấu thì né tránh giảm bớt, đón lành tránh dữ. Biết mình biết thời thế là sống hài hòa thuận theo cái lẽ tự nhiên của trời đất. Lúc này chính bản thân bạn chứ không phải ai khác đã ứng dụng Tử Vi một cách thông minh nhất.

Vậy đâu là đáp án chính xác cho câu hỏi Tử Vi: khoa học hay bói toán?

Theo chúng tôi, bản chất của Tử Vi là khoa học. Nền tảng đã được minh chứng qua hàng ngàn năm nay. Chỉ có những người lợi dụng Tử Vi để trục lợi mới đáng phê phán mà thôi. Họ nương vào Tử Vi nhưng lại luận đoán theo kiểu bói toán của các “thầy bà”… Khiến cho Tử Vi chính thống bị vận dụng sai cách thức. Lịch sử cũng đã lưu danh những bậc thầy Tử Vi chính thống. Tên tuổi của họ còn ghi dấu mãi về sau. Lừng danh nhất phải kể đến Khổng Minh Gia Cát Lượng.

Lá số Tử Vi vẫn luôn là một tấm gương sáng soi vào bản thân mỗi con người. Để chúng ta nhận thức được rất nhiều điều về chính mình và những điều xảy ra xung quanh mình. Những kinh nghiệm quan sát thực tiễn khiến Tử Vi vừa khoa học vừa gắn liền với đời thường vô cùng thú vị. Nếu chúng ta biết tìm đến những giá trị khoa học và triết học. Biết “gạn đục tìm trong” khi nghiên cứu và luận đoán Tử Vi. Đây chính là một đề tài khoa học rất đáng được quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Một quan điểm cũng rất thực tế. Thay vì chỉ muốn biết số mình sau này sướng hay khổ thì ta nên quan tâm đến một điều. Đó là liệu Tử Vi giúp ta nâng cao chất lượng cuộc sống ra sao và như thế nào? Hay chí ít thì hãy để Tử Vi trở thành một phương pháp thư giãn, giải trí. Làm cho tâm hồn ta rộng mở và có thể yên tâm hay thanh thản hơn.

【#10】Xem Boi Tu Vi Global Chấm Lá Số Tử Vi, Bói Toán, Tử Vi

Toggle navigation

Đang xem: Xem boi tu vi

Tướng Số Tử Vi-Tứ TrụXem Tử ViXem Tứ TrụCho Con Yêu Xem NgàyXem Tuổi-Xem BóiXem TuổiXem BóiThần số học Bói tênGieo QuẻPhong Thủy

×Thông Báo Chuyên Mục Mới!Kính thưa Qúy Vị,Chuyên mục Thái Ất tử vi năm Tân Sửu 2021 do Vương Dung Cơ luận giải và Mục xem sơ lược tử vi năm Tân Sửu 2021 do chùa Khánh Anh biên soạn đã được chúng tôi phát hành tại Tử Vi năm Tân Sửu chúng tôi mời quý vị tham khảo.

Xin trận trọng cảm ơn!

mister-map.com

ngày xem 28 ngày 01 ngày 02 ngày 03 ngày 04 ngày 05 ngày 06 ngày 07 ngày 08 ngày 09 ngày 10 ngày 11 ngày 12 ngày 13 ngày 14 ngày 15 ngày 16 ngày 17 ngày 18 ngày 19 ngày 20 ngày 21 ngày 22 ngày 23 ngày 24 ngày 25 ngày 26 ngày 27 ngày 28 ngày 29 ngày 30 ngày 31tháng xem 02tháng 01tháng 02tháng 03tháng 04tháng 05tháng 06tháng 07tháng 08tháng 09tháng 10tháng 11tháng 12

LỊCH VẠN NIÊN NGÀY 28 THÁNG 02 NĂM 2021

Lịch Dương Ngày 28 Tháng 02 năm 202128

06:06 – Chủ Nhật

Lịch ÂmNgày 17 Tháng 01 năm 2021

17

Ngày Rất Tốt

ngày 28 ngày 01 ngày 02 ngày 03 ngày 04 ngày 05 ngày 06 ngày 07 ngày 08 ngày 09 ngày 10 ngày 11 ngày 12 ngày 13 ngày 14 ngày 15 ngày 16 ngày 17 ngày 18 ngày 19 ngày 20 ngày 21 ngày 22 ngày 23 ngày 24 ngày 25 ngày 26 ngày 27 ngày 28 ngày 29 ngày 30 ngày 31

tháng 02tháng 01tháng 02tháng 03tháng 04tháng 05tháng 06tháng 07tháng 08tháng 09tháng 10tháng 11tháng 12

ngày 27 ngày 01 ngày 02 ngày 03 ngày 04 ngày 05 ngày 06 ngày 07 ngày 08 ngày 09 ngày 10 ngày 11 ngày 12 ngày 13 ngày 14 ngày 15 ngày 16 ngày 17 ngày 18 ngày 19 ngày 20 ngày 21 ngày 22 ngày 23 ngày 24 ngày 25 ngày 26 ngày 27 ngày 28 ngày 29 ngày 30 ngày 31

tháng 02tháng 01tháng 02tháng 03tháng 04tháng 05tháng 06tháng 07tháng 08tháng 09tháng 10tháng 11tháng 12

1h Sửu2h Sửu3h Dần4h Dần5h Mão6h Mão7h Thìn8h Thìn9h Tị10h Tị11h Ngọ12h Ngọ13h Mùi14h Mùi15h Thân16h Thân17h Dậu18h Dậu19h Tuất20h Tuất21h Hợi22h Hợi23h Tý24h Tý

00 phút01 phút02 phút03 phút04 phút05 phút06 phút07 phút08 phút09 phút10 phút11 phút12 phút13 phút14 phút15 phút16 phút17 phút18 phút19 phút20 phút21 phút22 phút23 phút24 phút25 phút26 phút27 phút28 phút29 phút30 phút31 phút32 phút33 phút34 phút35 phút36 phút37 phút38 phút39 phút40 phút41 phút42 phút43 phút44 phút45 phút46 phút47 phút48 phút49 phút50 phút51 phút52 phút53 phút54 phút55 phút56 phút57 phút58 phút59 phút

Xem Tiểu Hạn Năm

ngày 27 ngày 01 ngày 02 ngày 03 ngày 04 ngày 05 ngày 06 ngày 07 ngày 08 ngày 09 ngày 10 ngày 11 ngày 12 ngày 13 ngày 14 ngày 15 ngày 16 ngày 17 ngày 18 ngày 19 ngày 20 ngày 21 ngày 22 ngày 23 ngày 24 ngày 25 ngày 26 ngày 27 ngày 28 ngày 29 ngày 30 ngày 31

tháng 02tháng 01tháng 02tháng 03tháng 04tháng 05tháng 06tháng 07tháng 08tháng 09tháng 10tháng 11tháng 12

1h Sửu2h Sửu3h Dần4h Dần5h Mão6h Mão7h Thìn8h Thìn9h Tị10h Tị11h Ngọ12h Ngọ13h Mùi14h Mùi15h Thân16h Thân17h Dậu18h Dậu19h Tuất20h Tuất21h Hợi22h Hợi23h Tý24h Tý

00 phút01 phút02 phút03 phút04 phút05 phút06 phút07 phút08 phút09 phút10 phút11 phút12 phút13 phút14 phút15 phút16 phút17 phút18 phút19 phút20 phút21 phút22 phút23 phút24 phút25 phút26 phút27 phút28 phút29 phút30 phút31 phút32 phút33 phút34 phút35 phút36 phút37 phút38 phút39 phút40 phút41 phút42 phút43 phút44 phút45 phút46 phút47 phút48 phút49 phút50 phút51 phút52 phút53 phút54 phút55 phút56 phút57 phút58 phút59 phút

bói hình dáng mũiboi dichcanhtu vi Nữ con giáp nhận được sự cưngcung Ma Kết12 con giáp của trung quốc là gìtướng người xấukhuyết thổtránh tiểu nhânKim Bạc Kimvận thế của người tuổi MãoNghề nghiệp phù hợp với người tuổikhoctÃ4phong thủy lọ lục bìnhthủymautu van phong thuysao that satquatrangdai hai thuyДиетыThạchgiải mã giấc mơ thấy vịtvóvượng phu ích tửCoi ngay cuoimãPhÃHuong ke giường atướng mặt sang hèntài vận tốtsao hóa kỵ trong lá số tử viGiGiấc mơ thấy bắt ốctàiQuanchồng tuổi sửu vợ tuổi tỵBÃTrạng thái kỳ thúXem bói tháng sinh nói nên gì về conăn thịt bòthổ tinhtuổi thân 12 con giápChomĐẶT TÊNcấpkiêng